Thu hoạch dược liệu nhựa Bồ đề của người dân tộc Dao

Nhựa Bồ đề hay còn được gọi là An tức hương là một vị thuốc dùng để chữa ho, long đờm, hàn lạnh. Ngoài ra, nhựa Bồ đề còn là nguyên liệu nguyên liệu, hương liệu dùng trong công nghiệp. Ở vùng Nậm Kha – Lào Cai, người dân nơi đây rất tự hào với thương hiệu nhựa Bồ đề nức tiếng trong chuỗi mắt xích cung ứng nguyên liệu xuất khẩu đến các nước châu Âu.

1. Đôi nét về cây Bồ đề

  • Cây Bồ đề là cây gỗ lớn cao 20 m, vỏ xám, láng, cành tròn, màu nâu, mặt trước có lông sau nhẵn.
  • Lá mọc đối có cuống, gân lá hình lông chim. Phiến lá hình trứng hay hình mác, mặt trên nhẵn, xanh nhạt, mặt dưới trắng có lông sao, có 5-7 đôi gân phụ, nổi rõ ở mặt dưới.
  • Hoa xếp thành ngù, mọc ở nách và ngọn, có mùi thơm nhẹ. Tràng hợp thành ống 5 thuỳ xếp lợp, mặt ngoài có lông tơ vàng. Nhị 10.
  • Quả hình trứng có lông sao, phía dưới mang đài tồn tại.
  • Ra hoa tháng 5 – 6. Quả chín tháng 9 – 10.

Thu hoạch dược liệu nhựa Bồ đề của người dân tộc Dao 1

Hình ảnh cây Bồ đề

Dược liệu nhựa Bồ đề (An tức hương):

Là từng cục nhựa nhỏ rời nhau, to nhỏ không đều, một số dẹt, một số dính lại với nhau thành từng khối. Bên ngoài màu vàng cam, láng bóng như sáp (nhựa do tổn thương tự nhiên); hoặc có hình trụ không đều, mảnh dẹt, bên ngoài có màu trắng xám, hơi vàng (nhựa do vết rạch).

  • Chất giòn, dễ vỡ; mặt vỡ phẳng, màu trắng, để lâu dần dần chuyển thành nâu vàng hoặc nâu đỏ.
  • Đun nóng thì mềm và chảy ra.
  • Mùi thơm vani đặc biệt.
  • Vị hơi cay, khi nhai có cảm giác sạn.

Công dụng:

  • Chữa ho, long đờm, chữa trúng hàn người lạnh toát. Uống 0,5 – 2g dưới dạng thuốc bột, thuốc sắc, siro.
  • Bồ đề là cây công nghiệp dễ phát triển , mọc nhanh, có giá trị kinh tế, dùng trong ngành gỗ dán, gỗ diêm, bột giấy, và làm nguyên liêu chế sợi nhân tạo.

2. Thu hái dược liệu

Được sự cho phép, chúng tôi theo chân ông Triệu Tài Lâm (thôn Khe Móc, xã Nậm Kha, Văn Bàn, Lào Cai), đến chỗ những cây bồ đề để thu hái nhựa. Ông cho biết mỗi đợt đi rừng 7 ngày, ông Lâm thu về khoảng 70 kg nhựa bồ đề, bán với giá 350.000 đồng/kg. Mùa thu cũng là giai đoạn thu hoạch nhựa bồ đề. Ông là một trong những người dân của xã bắt đầu công việc cạo nhựa bồ đề.

Người dân tộc Dao, Tày khai thác nhựa bồ đề bằng cách lựa chọn loại cây có tuổi đời từ 5 – 10 tuổi, rạch vào thân, cành cây để nhựa chảy ra, sau đó nhựa khô lại.

Thu hái nhựa cánh kiến trắng vào cuối mùa hè và mùa thu, công việc nặng nhọc thường chỉ những người đàn ông Dao, Tày làm.

Thu hoạch dược liệu nhựa Bồ đề của người dân tộc Dao 2Hình ảnh người dân đi thu hái nguyên liệu

Lào Cai hiện có gần 4.000 ha rừng trồng cây bồ đề, riêng huyện Văn Bàn là 370 ha. Khi cây từ 5 – 8 tuổi, chiều cao khoảng 20m thì người dân bắt đầu khai thác mủ. Họ dùng dao cắt hình bao diêm trên thân, mỗi điểm cách nhau khoảng 90cm. Sau khi nhựa bồ đề chảy ra tích lại ở vị trị bị cắt thì người dân sẽ thu hoạch.
Hàng năm người dân chọn tháng 5 để rạch vào thân cây, sau đó thu hoạch vào tháng 7, 8 và tháng 12. Ông Lâm gắn bó với cây bồ đề mấy chục năm qua. “Ngày trước do chưa biết giá trị cánh kiến trắng, tôi chỉ vào rừng chặt cây bán lấy gỗ. Ba năm trở lại đây, nhận thấy giá trị của nhựa bồ đề tôi bắt đầu lấy nhựa, vừa không phá rừng lại vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao”, ông Lâm nói.
Sau khi nghỉ trưa ông Lâm trèo lên những cây đã đến thời điểm thu hoạch để lấy nhựa. Ông Lâm cho biết, mỗi đợt đi rừng 5 – 7 ngày, người dân ở huyện miền núi Lào Cai cạo được khoảng 70kg nhựa bồ đề và bán với giá 350.000 đồng/kg. Sản phẩm cánh kiến trắng được doanh nghiệp trên địa bàn thu mua để xuất khẩu đi châu Âu, dùng trong ngành công nghiệp mỹ phẩm.

Nhựa bồ đề là những cục rời nhau, màu trắng, vàng nhạt hoặc đỏ nhạt, đục, dễ lấy. Mỗi cây bồ đề có thể cho khoảng 700g nhựa nguyên chất. Nhựa bồ đề là hợp chất thiên nhiên quý giá được dùng phổ biến sản xuất nước hoa như chất định hương, có tác dụng giữ mùi hương lưu lại lâu dài.

Thu hoạch dược liệu nhựa Bồ đề của người dân tộc Dao 3

Nhựa bồ đề được dùng phổ biến sản xuất nước hoa như chất định hương, có tác dụng giữ mùi hương lưu lại

Nhựa bồ đề được người thợ thu hoạch để vào giỏ mang theo bên người. Trước đây, mọi người chỉ biết đến công dụng của nhựa bồ đề trong y học để chữa ho, long đờm, chữa trúng hàn… Ngày nay, nhựa bồ đề còn có tác dụng khác trong sản xuất nước hoa, gỗ cây dùng làm diêm, bột giấy và làm nguyên liêu chế biến sợi nhân tạo.

  • Nhựa cây bồ đề khai thác tại Lào Cai được đánh giá chất lượng tốt nhưng vẫn còn lẫn nhiều tạp chất (đất, vỏ cây…) do việc khai thác thủ công. Hiện nay, nhựa bồ đề được xuất khẩu sang Pháp, Myanmar làm nguyên liệu sản xuất nước hoa cao cấp, giúp cho việc lưu giữ mùi hương trong các loại mỹ phẩm dưỡng da. Hương thơm dễ chịu của nhựa bồ đề làm thư giãn tinh thần, giảm mệt mỏi căng thẳng, sảng khoái. Nhựa bồ đề loại 1 có giá bán lên tới 450.000 đồng/kg. Bởi lẽ đó, vùng rừng bồ đề tự nhiên trở thành “mỏ nguyên liệu” giúp đồng bào dân tộc miền núi thoát nghèo.

Huyện Văn Bàn hiện có 20 hộ dân tham gia khai thác nhựa bồ đề với số lượng hơn 2.000 gốc cây tự nhiên để cung cấp cho công ty thua mua xuất khẩu. Để phát triển bền vững vùng nguyên liệu, người dân cũng được doanh nghiệp cung cấp cây giống để trồng mới.

Để tăng thu nhập, chị Liu Mấy (thôn 72, xã Chiềng Khen) cho biết: Theo hướng dẫn của cán bộ khuyến nông địa phương, người dân có thể trồng xen canh dưới tán cây bồ đề các loại cây trồng khác như sả và gừng. Cả hai loại cây này cũng sẽ được thu mua để sản xuất tinh dầu xuất khẩu.

Các cán bộ kiểm lâm luôn đồng hành cùng người dân hướng dẫn chăm sóc, thu hoạch, bảo vệ tài nguyên rừng quý giá.

  • Theo ông Đỗ Ngọc Minh, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm huyện Văn Bàn, mô hình trồng cây bồ đề lấy nhựa trên địa bàn không chỉ giúp người dân tăng thu nhập mà còn giảm áp lực vào rừng khai thác gỗ. “Muốn người dân không phá rừng thì phải tìm sinh kế cho họ. Với cách làm này, mỗi ha cho người dân thu nhập từ 40 – 90 triệu đồng. Đây sẽ là những mô hình điểm để từ đó địa phương triển khai ra diện rộng việc trồng cây bồ đề”, ông Đỗ Ngọc Minh chia sẻ.

Không khó để nhìn thấy tài nguyên rừng đã mang lại sự thay đổi cuộc sống của người dân Văn Bàn và chính sự giữ rừng của cả cộng đồng, chung tay vì một nền nông nghiệp sạch đã thực sự mang lại cuộc sống ấm no, là tài nguyên “vàng” về người dân làm giàu.

Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam


Source link

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *