Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc ở huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang

Nguyễn Duy Hưng, Hà Minh Tâm, Lưu Đàm Cư

HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 4 – DOI: 10.15625/vap.2020.00017


Tóm tắt:

Huyện Hoàng Su Phì là nơi có hệ thực vật đa dạng và phong phú. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, nguồn tài nguyên thực vật làm thuốc tại khu vực này đang bị suy giảm, cần được đánh giá để xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ bảo tồn và phát triển bền vững. Trong bài báo này chúng tôi đã xây dựng danh lục các loài thực vật được sử dụng làm thuốc tại huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang gồm 567 loài, thuộc 392 chi, 144 họ, 5 ngành; gồm 12 kiểu dạng sống; thuộc 18 yếu tố địa lý và phân bố trong 8 kiểu thảm thực vật đặc trưng của khu vực nghiên cứu. Đây là dữ liệu cần thiết cho các công trình nghiên cứu tiếp theo về lĩnh vực thực vật học, sinh thái học và đặc biệt là thực vật học dân tộc.

Từ khóa: Cây thuốc, Hoàng Su Phì, Hà Giang.


Mục lục

  • 1. Mở đầu
  • 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu
    • 2.2. Phương pháp nghiên cứu
  • 3. Kết quả và thảo luận
    • 3.1. Đa dạng về phân loại
    • 3.2. Đa dạng phổ dạng sống của các loài
    • 3.3. Đa dạng về yếu tố địa lý
    • 3.4. Đa dạng về sự phân bố trong các kiểu thảm thực vật
  • 4. Kết luận

1. Mở đầu

Huyện Hoàng Su Phì nằm ở phía Tây của tỉnh Hà Giang, dưới dải Tây Côn Lĩnh, có độ cao trung bình trên 2000 m so với mực nước biển, với diện tích 629,42 km², gồm 25 xã, thị trấn, là nơi chung sống của 12 dân tộc. Do địa hình và khí hậu đa dạng đã hình thành nhiều kiểu hệ sinh thái khác nhau với thảm thực vật phong phú, trong đó có nguồn tài nguyên cây thuốc.

Cho đến nay, mặc dù đã có một số nghiên cứu đề cập đến một số loài thực vật làm thuốc ở nơi đây, nhưng nguồn tài nguyên cây thuốc của huyện Hoàng Su Phì chưa được điều tra, đánh giá một cách có hệ thống; việc khai thác quá mức dẫn đếnmột số loài cây thuốc quý có nguy cơ tuyệt chủng hoặc còn rất ít. Chính vì vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc nơi đây, nhằm góp phần cung cấp cơ sở dữ liệu phục vụ công tác bảo tồn và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên cây thuốc ở huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.

2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

  • Các loài thực vật được sử dụng làm thuốc tại huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Để xây dựng danh lục các loài, chúng tôi sử dụng phương pháp của Gary J. Martin (2002) và Nguyễn Nghĩa Thìn (2007); định loại các loài theo Phạm Hoàng Hộ (1999-2003); chỉnh lý danh pháp và sắp xếp các loài theo Danh lục các loài thực vật Việt Nam (2001, 2003, 2005), web chuyên khảo https://www.tropicos.org/home và
http://www.theplantlist.org; phân tích phổ dạng sống theo Raunkiaer (1934); phổ yếu tố địa lý theo Lê Trần Chấn (1999).

3. Kết quả và thảo luận

3.1. Đa dạng về phân loại

Qua nghiên cứu, chúng tôi đã xác định được các loài thực vật được sử dụng làm thuốc ở huyện Hoàng Su Phì gồm 567 loài, thuộc 144 họ, 5 ngành: Thông đất (Lycopodiophyta), Cỏ tháp bút (Equisetophyta), Dương xỉ (Polypodiophyta), Thông (Pinophyta) và ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) (Bảng 1).

3.1. Đa dạng về phân loại 1

Nhận xét:

  • Như vậy, số lượng cây thuốc phân bố ở các ngành không đồng đều nhau, chủ yếu tập trung ở ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), với 124 họ (chiếm 86,11%), 366 chi (chiếm 93,36%), 527 loài (chiếm 93,77%). Trong đó, lớp Hai lá mầm chiếm tỷ lệ cao, với 98 họ (chiếm 79,03%), 303 chi (chiếm 82,78%) và 438 loài (chiếm 83,11%).
  • Trong số 144 họ được tìm thấy, 10 họ có số loài nhiều nhất, với 202 loài (chiếm tới 34,47% tổng số loài nghiên cứu), kết quả cụ thể tại Bảng 2 và Hình 1.

3.1. Đa dạng về phân loại 2

Nhận xét:

Tại Hoàng Su Phì, 10 họ cây thuốc giàu loài nhất đều thuộc các họ đa dạng nhất của hệ thực vật Việt Nam. Điều này phù hợp với nhận định của Tolmachov A. L. (1974) khi nghiên cứu tính đa dạng rừng nhiệt đới thành phần loài thực vật đa dạng và phong phú, thể hiện ở chỗ rất ít họ có số lượng loài chiếm 10% tổng số loài trong hệ thực vật và tổng tỉ lệ phần trăm 10 họ có số loài lớn nhất chỉ đạt 40-50% tổng số loài, tổng số họ giàu loài nhất nhỏ hơn 50% tổng số loài của hệ thực vật thì hệ thực vật đó được coi là đa dạng bậc họ. Như vậy ta có thể khẳng định rằng thành phần loài cây thuốc tại đây đa dạng ở bậc họ.

3.1. Đa dạng về phân loại 3

Kết quả so sánh số loài cây thuốc của khu vực nghiên cứu với số loài cây thuốc có ở Việt Nam được thể hiện qua Bảng 3.

3.1. Đa dạng về phân loại 4

Nhận xét:

  • Số liệu trong bảng trên cho thấy, mặc dù chỉ chiếm một diện tích rất nhỏ trên bản đồ Việt Nam, nhưng thành phần thực vật làm thuốc ở huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang lại chiếm một tỉ lệ cao, với 567 loài (chiếm 11,07% trong thành phần cây thuốc của cả nước).
  • Đặc biệt kết quả nghiên cứu đã ghi nhận loài Chéo béo (Oreocnide kwangsiensis Hand.-Mazz) bổ sung cho hệ thực vật Việt Nam.

3.2. Đa dạng phổ dạng sống của các loài

Dựa trên cơ sở xây dựng dữ liệu về đa dạng về dạng sống của hệ thực vật do Raunkiaer (1934) xây dựng và được Nguyễn Nghĩa Thìn bổ sung đặc trưng bởi các phổ dạng sống. Kết quả thống kê đa dạng về dạng sống của các loài cây thuốc ở huyện Hoàng Su Phì được trình bày trong Bảng 4.

3.2. Đa dạng phổ dạng sống của các loài 1

Bảng 4 cho thấy:

Nhóm cây thuốc có dạng sống có chồi trên mặt đất < 25 cm, thân cỏ, bao gồm cỏ một năm và cỏ nhiều năm ( Sp, Ch, Hm, Cr) có số lượng loài lớn nhất và được dùng làm thuốc nhiều nhất, với 198 loài (chiếm 46,48%).

Trong đó, có nhiều loài quý hiếm như: Hoa tiên (Asarum glabrum Merr.), Bát giác liên (Podophyllum tonkinense Gagnep.), Hoàng tinh hoa trắng (Disporopsis longifolia Craib), Hoàng tinh hoa đỏ (Polygonatum kingianum Coll. & Hemsl), Sâm mây (Peliosanthes teta Andr.), Sâm cau (Curculigo orchioides Gaertn), Kim tuyến (Anoectochilus setaceus Blume)…

Nhóm thân gỗ, bao gồm: Thân gỗ lớn, thân gỗ trung bình và thân gỗ nhỏ (Mg, Me và Mi) cũng là nhóm chiếm ưu thế, với 178 loài (chiếm 31,67%), một số loài quý hiếm như: Sa mộc dầu (Cunninghamia konishii Hayata), Nghiến (Excentrodendron tonkinense Gagnep.), Sến mật (Madhuca pasquieri (Dubard) H. J. Lam), Re hương
(Cinnamomum porrectum (Roxb.) Kosterm.). Tuy giá trị làm thuốc của nhóm này không thực sự lớn, nhưng việc khai thác quá mức các loài thuộc nhóm này có thể làm ảnh hưởng tới cấu trúc thảm thực vật rừng và sự mất loài.

Nhóm cây thuốc có dạng sống là thân leo, bao gồm: Thân leo gỗ và thân leo dạng cỏ, dạng trườn (Ep và Lp) có 99 loài (chiếm 17,61%). Là nhóm có số lượng loài cây làm thuốc lớn thứ 3, một số loài điển hình như: Huyết đằng (Sargentodoxa cuneata (Oliv.) Rehd. & Wils.), Dây đau xương (Tinospora sinensis (Lour.) Merr.), Dây gắm (Gnetum formosum Markgr.), Nắm cơm (Kadsura coccinea (Lem.) A. C. Smith), Cát sâm (Callerya speciosa (Champ. ex Benth.) Schot), Hà thủ ô nam (Streptocaulon juventas (Lour.) Merr.), Bình vôi (Stephania rotunda Lour.), Lạc tiên (Passiflora foetida L.), Đại hái (Hodgsonia macrocarpa (Blume) Cogn.)…

Nhóm cây thuốc dạng thân gỗ nhỏ, nửa bụi (Na và Hp) có 43 loài (chiếm 7,65%), một số loài điển hình như: Lá khôi (Ardisia silvestris Pitard), Hoa giẻ thơm (Desmos chinensis Lour.), Vú bò (Ficus heterophylla L. f.)… Đây là nhóm còn tiềm ẩn nhiều giá trị cần được tìm hiểu.

3.3. Đa dạng về yếu tố địa lý

Qua thống kê, chúng tôi đã xác định được các loài cây thuốc ở huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang thuộc 18 yếu tố địa lý (Bảng 5).

3.3. Đa dạng về yếu tố địa lý 1

Nhận xét:

Bảng 5 cho thấy các loài cây thuốc trong hệ thực vật huyện Hoàng Su Phì có tỉ trọng yếu tố đặc hữu Bắc Bộ và yếu tố đặc hữu Việt Nam tuơng đối cao, với 58 loài (chiếm 10,50%) trong tổng số 567 loài cây thuốc của hệ thực vật.

Các yếu tố Nhiệt đới châu Á, Đông Dương, Ấn Độ hay Châu Á nhiệt đới đều là những yếu tố có số lượng loài phong phú. Sự đa dạng về các yếu tố địa lý nói lên tính đa dạng và giá trị khoa học của hệ thực
vật huyện Hoàng Su Phì.

3.4. Đa dạng về sự phân bố trong các kiểu thảm thực vật

Các loài cây thuốc có tại huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang phân bố trong 10 kiểu thảm thực vật (Bảng 6).

Hệ sinh thái rừng kín thường xanh ôn đới trên núi cao: Kiểu thảm này có rải rác ở hầu như khắp 25 xã thị trấn của huyện Hoàng Su Phì, độ cao từ 100 đến 2000 m so với mặt nước biển. Đây là kiểu thảm có nhiều loài nhất, với 206 loài (chiếm 36,65%). Một số loài thường gặp như: Đu đủ rừng (Trevesia palmata (Roxb. ex Lindl.), Mía dò (Costus speciosus (Koenig) Smith), Dong rừng (Phrynium placentarium (Lour.) Merr.), Nắm cơm (Kadsura coccinea (Lem.) A. C. Smith)…

3.4. Đa dạng về sự phân bố trong các kiểu thảm thực vật 1Ghi chú: Tổng tỉ lệ % trong bảng lớn hơn 100%, do có nhiều loài sống trong nhiều sinh cảnh.

Nhận xét:

Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi: Kiểu thảm này thuộc các xã Bản Béo, Pờ Li Ngài, Bản Luốc, Ngàm Đăng Vài, Bản Nhùng, Túng Sán. Chúng tôi đã điều tra, thống kê được 163 loài (chiếm 29%), thuộc 95 chi của 47 họ. Tuy ít bị tác động của con người hơn, nhưng một số loài cây thuốc có giá trị cao vẫn bị khai thác nhiều với hình thức khai thác chọn lọc.

Hệ sinh thái rừng kín thường xanh hỗn giao lá rộng – lá kim á nhiệt đới trên núi trung bình: Tại kiểu rừng này, chúng tôi đã thống kê được 89 loài cây thuốc (chiếm 15,83%), thuộc 146 chi của 69 họ. Một số loài cây thuốc thường gặp như: Hoài sơn (Dioscorea persimilis Prain & Burk.), Máu chó lá nhỏ (Knema globularia (Lamk.) Warb.), Trọng đũa (Ardisia crenata Sims), Nhàu tán (Morinda umbellate L.)… Tuy số lượng các cây thuốc khá nhiều nhưng trữ lượng của từng loài thường không lớn và phân bố rải rác.

Điều này có thể giải thích bởi sự khai thác củi, gỗ trong một thời gian dài đã dẫn những tới những sự thay đổi theo hướng tiêu cực đối với môi trường sống của các loài cây thuốc từ đó làm suy giảm trữ lượng của các loài cây thuốc. Bên cạnh đó, sự thu hái quá mức của nhân dân địa phương cũng là nguyên nhân gây suy giảm trữ lượng các loài cây thuốc ở đây.

Hệ sinh thái rừng trồng: Có diện tích khá lớn, với cấp tuổi khác nhau, gồm 78 loài (chiếm 13,87%). Trong quá trình điều tra, chúng tôi nhận thấy các loài cây thuốc thường phân bố rải rác trong kiểu thảm này, các loài cây thuốc này thường là cây bụi, một số ít là dây leo, chịu được khô hạn.

Hệ sinh thái rừng hỗn giao gỗ và vầu: Hiện nay, kiểu thảm này ở huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang có diện tích nhỏ. Số lượng loài cây thuốc phân bố tương đối ít so với các kiểu thảm khác. Tuy nhiên, cũng có các loài cây thuốc thường phân bố tập trung như: Đu đủ rừng (Trevesia palmata (Roxb. ex Lindl.) Visan); Hoa tiên (Asarum glabrum Merr.); Nắm cơm (Kadsura coccinea (Lem.) A. C. Smith), Mía dò (Costus speciosus (Koenig) Smith)…

Hệ sinh thái trảng cỏ, cây bụi và khu dân cư: Đây là kiểu thảm có diện tích khá lớn. Tại đây, chúng tôi đã thống kê được một số cây thuốc thường gặp như: Nhọ nồi (Eclipta prostrata L.), Tầm bóp (Physalis angulata L.), Cổ bình (Tadehagi triquetrum (L.) Ohashi), Chặc chìu (Tetracera scandens (L.) Merr.), Lạc tiên (Passiflora foetida L.), Hà thủ ô nam (Streptocaulon juventas (Lour.) Merr.), Nhàu tán (Morinda umbellate L.)…

4. Kết luận

Các loài cây thuốc tại huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang gồm 567 loài, thuộc 392 chi, 144 họ, 5 ngành (Thông đất – Lycopodiophyta, Cỏ tháp bút – Equisetophyta, Dương xỉ – Polypodiophyta, Thông – Pinophyta và Ngọc lan – Magnoliophyta); gồm 12 kiểu dạng sống; thuộc 18 yếu tố địa lý và phân bố trong 8 kiểu thảm thực vật đặc trưng của khu vực nghiên cứu.


Source link

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *