Nhân trần

Mục lục

  • Mô tả
  • Phân bố, sinh thái
  • Thành phần hoá học
  • Tác dụng dược lý
  • Tính vị, công năng
  • Công dụng
  • Mô tả cây
  • Phân bố, thu hái và chế biến
  • Thành phần hoá học
  • Tác dụng dược lý
    • Nhân trần tía
  • Đơn thuốc có nhân trần

Mô tả

  • Cây thảo, mọc đứng, cao 40 – 70cm, có khi đến 1m. Thân tròn, cứng, phủ đầy lông.
  • Lá mọc đối, hình trái xoan, dài 4 – 6cm, rộng 2 – 3cm, đầu tù hoặc hơi nhọn, gốc tròn, mép khía răng đều, hai mặt đều có lông; cuống lá đài 0,5 – 1,2cm; vò lá có mùi thơm.
  • Cụm hoa mọc ở đầu cành và kẽ lá thành chùm dạng bông, dài đến 30cm; hoa màu lam tím, đài hình chuông xẻ 5 răng có lông, thuỳ ngoài hình mác, trong và dài, thuỳ trong rất hẹp, tràng chia 2 môi, môi trên hình tam giác, bằng hoặc hơi lõm ở đâu, môi dưới hơi dài hơn, chia 3 thuỳ đều nhau; nhị 4.
  • Quả nang, dài bằng đài hoa, hình trứng có nó ngắn, chứa nhiều hạt nhỏ màu vàng.
  • Mùa hoa quả: tháng 4 – 7.

Phân bố, sinh thái

Có khoảng 15 loài thuốc chi Adenosna R.B ở vùng nhiệt đới Động – Nam Á, Nam Á. Trung Quốc và Australia. Ở Việt Nam 7 loài. Loài nhân trần phân bố khắp vùng nhiệt đới từ Ấn Độ, Srilanca đến Malaysia, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Nam Trung Quốc, và một số đảo lớn (Borneo, Java) của Indonesia. Ở Việt Nam, nhân trần phân bố tập trung ở các sinh vùng núi phía bắc, như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai.

Nhân trần là cây ưa ẩm, ưa sáng và hơi chịu bóng, nhất là khi cây còn nhỏ, thường mọc lẫn với những loại cây bụi nhỏ, có thắp ở ven rừng, nương rẫy cũ hoặc ở đồi.

Bộ phận dùng:

Phần trên mặt đất của cây nhân vẫn thu hái vào mùa hè lúc cây đang ra hoa, phơi hay sấy khô, bó thành từng bó, bảo quản nơi khô mát. Khi dùng rửa sạch, loại bỏ tạp bản chất ra từng đoạn 3 – 5cm, phơi và sao qua cho khô.

Thành phần hoá học

  • Toàn cây nhân trần chứa tinh dầu với hàm lượng 1% gồm paracymen (chủ yếu nên là pinen limonen, cineol, ancthol.
  • Ngoài ra, còn có acid nhân thơm, coumarin, sesquiterpen và flavonoid.

Tác dụng dược lý

Tác dụng tăng tiết mật: Thí nghiệm được tiến hành trên chuột lang, thuốc được cho thẳng vào dạ dày. Kết quả thí nghiệm cho thấy nhân trần với liều 10g/kg/cân nặng có tác dụng làm tăng tiết mật, lượng mật tiết ra sau khi dùng thuốc tăng 24,4%.

Tăng cường chức năng thải trừ của gan: Kết quả cho thấy nhân trần liều 10g/kg làm tăng chức năng thải trừ của gan đến 187,5% so với lô đối chứng.

Tác dụng chống viêm: Trên mô hình giai đoạn cấp tính của phản ứng viêm, gây phù bàn chân chuốt cống trắng bằng kaolin, liều có tác dụng ức chế phù 50% của nhân trần là ED% = 6,3g/kg, còn trên mô hình viêm mạn gây u hại bằng cách cấy dưới da chuột cống trắng viên amian thì nhân trần có liều ức chế 50% trọng lượng u hạt là EDx = 25,5g/kg. Như vậy, nhân trần có tác dụng chống viêm ở giai đoạn cấp tính mạnh hơn giai đoạn mạn tính.

Tính vị, công năng

Theo y học cổ truyền, nhân trần có vị đắng, cay, tính bình, vào các kinh tỳ, vị, can, đởm, có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, hành khí, chỉ thống, lợi tiểu, làm ra mồ hôi.

Công dụng

Trong y học hiện đại, nhân trần đã được Bộ môn truyền nhiễm Trường đại học Y khoa Hà Nội cùng điều trị thực nghiện bệnh viêm gan do virus. Tất cả bệnh nhân dùng thuốc đều là người lớn, vào viện trong giai đoạn cấp tính, có thời kỳ tiền hoàng dàn và thời kỳ hoàng đản rõ rệt, xét nghiệm máu hoạt độ các men transaminaza đều tăng, trị bilirubin máu cũng tăng. Nhân trần được dùng dưới dạng siro mỗi ngày một chai 10ml, chia làm 2 lần uống vào buổi sáng và chiều. Sau một thời gian điều trị, ở bệnh nhân dùng nhân trần trị bilirubin máu và hoạt độ men SGPT đều trở về mức bình thường. Đó là các dấu hiệu khách quan không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của bệnh nhân cũng như của thầy thuốc. Ngoài ra, các bệnh nhân cũng cải thiện rõ rệt các triệu chứng như hết mệt mỏi, hết đau vùng gan, ăn ngon giúp cho bệnh nhân chóng hồi phục.

Còn trong y học cổ truyền, nhân trần được chữa vàng da, sốt nóng, tiểu tiện không thông và cho phụ
nữ sau khi đẻ làm ăn ngon, chóng lại sức. Liều dùng: 8 – 20g/ngày, dưới dạng thuốc sắc, siro hoặc thuốc viên.

Bài thuốc có nhân trần

  1. Chữa sốt vàng da (mất vàng, dát vàng, miệng khô, tiểu tiện khó): Nhân trần 20g, chi tử 12g, đại hoàng 4g, nước 500ml. Sắc còn 250ml, chia làm 3 lần, uống trong
    ngày
  2. Chữa say nắng, nhức đầu, sốt nóng: Nhân trần, hành trắng, mỗi vị lượng bằng nhau (khoảng một nắn). Sắc nước uống.
  3. Chữa mất sưng đỏ đau: Nhân trần, mã đề, mỗi vị một nắm. Sắc nước uống (Nam dược thảo hiệu)
  4. Chữa hoàng đản, ra nhiều mô hôi, chân tay lạnh, mạch yếu: Nhân trần 24g, can khương 12g, cam thảo 8g, phụ tử chế 4g. Sắc nước uống.

Tham khảo thêm:

Nhân trần là một vị thuốc thường dùng trong nhân dân chữa bệnh vàng da, bệnh về đường mật và bệnh của phụ nữ sau khi đẻ. Các bà mẹ thường truyền dạy cho con gái câu:

“Nhân trần, ích mẫu đi đâu?

Để cho gái đẻ đớn đau thế này”

Tuy nhiên, tên nhân trần lại dùng để chỉ ít nhất cũng là 3 cây khác nhau, hình dáng và họ thực vật khác hẳn nhau. Cần chú ý khi sử dụng và nghiên cứu:

  1. Cây nhân trần Việt Nam (chữ Việt Nam là do chúng tôi tạm thêm để dễ phân biệt). Tên khoa học được một số nhà thực vật của ta xác định là Adenosma caeruleum R. Br., thuộc họ Hoa mõm chó – Scrophulariaceae.
  2. Cây nhân trần bồ bồ: vì một số vùng gọi là bồ bồ, một số vùng khác gọi là nhân trần. Trong những sách do chính chúng tôi viết và cho in, một số tác giả trước đây thường gọi là nhân trần. Nhưng trên thực tế điều tra lại, tên bồ bồ phổ biến hơn. Hiện nay Công ty dược liệu vẫn thu mua và cung cấp cây bồ bồ này với tên nhân trần. Tên khoa học là Adenosma capitatum (Benth.) Benth. ex Hance, thuộc họ Hoa mõm chó Scrophulariacase. Trước đây xác định là Acrocephalus capitatus thuộc họ Hoa môi. Nay mới đính chính lại.
  3. Cây nhân trần Trung Quốc (chữ Trung Quốc chúng tôi cũng mới thêm sau để dễ phân biệt). Trong các sách Trung Quốc không có thêm 2 chữ Trung Quốc vào mà lại gọi là nhân trần cao. Tên như vậy vì trên thực tế chỉ thấy giới thiệu trong các sách Trung Quốc, chưa thấy mọc ở Việt Nam, có tên khoa học là Artemisia capillaris Thunb. thuộc họ Cúc Asteraceae.

Hai cây trên được sử dụng phổ biến ở Việt Nam, nhưng ít được nghiên cứu hoặc nghiên cứu chưa đầy đủ, còn cây nhân trần Trung Quốc không thấy sử dụng ở nước ta nhưng lại được nghiên cứu tương đối kỹ. Chúng tôi giới thiệu cả 3 cây để tiện đối chiếu tham khảo khi sử dụng và nghiên cứu.

Mô tả cây

  • Cây nhân trần Việt Nam-còn có tên nhân trần cái (ở miền Bắc) để phân biệt với cây nhân trần đực (tức bồ bồ)-tên khoa học Adenosma caeruleum R. Br. Cây này thường được nhân dân vùng Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Giang, Bắc Ninh gọi là Nhân trần nhưng nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh gọi nhầm là hoắc hương núi. Đây là một loại cỏ mọc hoang, sống hằng năm cao 0,3-1 m, thân tròn, màu tím trên có lông trắng mịn, ít phân cành. Lá mọc đối hình trứng, đầu lá dài và nhọn, mép có răng cưa to, mặt trên và mặt dưới đều nhiều lông mịn, phiến là dài 3-8cm, rộng 1- 3,5cm, gân nổi rõ ở mặt dưới, cuống 5-10mm. Toàn thân và lá vò có mùi thơm. Hoa mọc đơn độc ở kẽ lá hay thành chùm bông ở đầu cành. Đài hình chuông xẻ thành 5 thuỳ sâu. Tràng màu tím xanh dài 10-14mm, môi trên hình lưỡi, môi dưới xẻ thành 5 thuỳ đều nhau. Quả nang hình trứng, dài bằng đài, nhiều hạt nhỏ.
  • Cây bồ bồ (tên gọi ở vùng Vĩnh Phúc, Phú Thọ) một số nơi gọi là nhân trần (trong lần in trước, chúng tôi cũng gọi là nhân trần, ở miền Nam gọi là nhân trần đực để phân biệt với nhân trần cái của miền Nam hay nhân trần tía)- Adenosma capitatum (mới đây có tác giả xác định là Adenosma indianum (Lour.) Merr.- cần kiểm tra lại). Là một loại cỏ cao 15-70cm, mang nhiều cành ngay từ gốc, thân nhẵn hay hơi có lông. Lá mọc đối có cuống. Phiến lá hình mác dài, đầu nhọn, phía cuống hẹp lại, mép hơi khía tai bèo hay có răng cưa. Cụm hoa hình cầu, rất nhiều hoa thường có 2 lá bắc. Hoa nhỏ không cuống, đài có lông với 2 môi, môi trên nguyên, môi dưới xẻ 4. Tràng cánh hợp với 2 môi, môi trên xẻ 4, môi dưới nguyên, 4 nhị 2 chiếc .
  • Cây nhân trần tím (hay nhân trần cái của miền Nam) còn có tên nhân trần lá bắc (tên do một nhà thực vật Việt Nam tự đặt ra) – Adenosma bracteosum Bonnati cùng họ Hoa mõm chó. Thân và cành có màu tím đỏ, cụm hoa thành bông dài mang ở gốc những lá bắc tạo thành tổng bao, những lá bắc phía trên lợp lên nhau, dạng màng, trong suốt, hình tim có chóp nhọn.
  • Mọc tốt ở các đất có phèn của miền Nam. Mọc vào tháng 5 (mùa mưa) ra hoa tháng 10-11. Tàn lụi tháng 1-2. Hạt từ các nang rụng xuống, đến mùa mưa lại mọc lên.
  • Cây nhân trần Trung Quốc-thường gọi nhân trần cao-Artemisia capillaris Thumnb., họ Cúc Asteraceae (Compositae) cao 0,4-1m. Lá xẻ thành thuỳ rất nhỏ hình sợi trông gần giống cây thanh hao (chổi xuể-xem vị này). Hoàn toàn khác hẳn 3 vị nói ở trên.

Phân bố, thu hái và chế biến

  • Nhân trần và bồ bồ thường mọc hoang ở những đồi, những ruộng vùng trung du miền Bắc, nhiều nhất tại Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Giang, Bắc Ninh. Ở các tỉnh phía Nam có nhân trần tía mọc xen với bồ bồ. Còn mọc ở Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia.
  • Chưa ai đặt vấn đề trồng. Trồng bằng hạt. Thường thu hái vào mùa hè khi cây đang ra hoa. Đem về phơi hay sấy khô, bó thành từng bó dài 25-30cm, đường kính 5-6cm, trọng lượng 40- 60g, gồm chừng 20 cây mang hoa buộc lại thành một bó. Có khi bó thành bó lớn hơn.
  • Công ty dược liệu hiện thu mua bồ bồ với tên nhân trần. Để phân biệt, ta có thể dựa vào cây khô có cụm hoa hình cầu trông như họ Cúc đó là bồ bồ. Còn cây khô, hoa thường bị rụng là nhân trần.

Thành phần hoá học

  • Cây nhân trần – Adenosma caeruleum – ít thấy tài liệu nghiên cứu.
  • Sơ bộ chúng tôi thấy có tinh dầu có mùi cin- eol, hoạt chất của tinh dầu tràm, khuynh diệp.
  • Năm 1975, Lê Tùng Châu và cộng sự phân tích trong nhân trần có saponin tritecpenic, flavonozit, axit nhân thơm, cumarin và tinh dầu. Cả cây có 1% tinh dầu, hoa có 1,86% tinh dầu tỷ trọng 0,8042 (25°) αD=l,4705 (20°) αD=+408. Thành phần tinh dầu nhân trần khác với thành phần tinh dầu bồ bồ.
  • Cây bồ bồ – Adenosma capitatum được F. Guichard và J. Clemensat phân tích năm 1939 dưới tên nhân trần và thấy 1,67% kali nitrat, một saponin có chỉ số bọt 2.600, một glucozit tan trong axeton, trong ête, không tan trong nước và chừng 0,7% tinh dầu. Tinh dầu bồ bồ lỏng, màu vàng, mùi hăng gần giống như mùi long não và bạc hà, vị nóng. Rất tan trong cồn metylic, etylic, clorofoc và các dung môi hữu cơ khác. Tỷ trọng ở 15°C là 0,914, chỉ số khúc xạ ở 20°C là 1,4733 và ở 30°C là 1,4717. Thành phần chủ yếu của tinh dầu gồm 20% hợp chất oxy tan trong dung dịch resorcin, 50%. Chỉ số axit 1,4. chỉ số xà phòng hoá 11,5; chỉ số axetyl hoá 38; chỉ số iốt 121,4.
  • Năm 1950, p.V.Nair và cộng sự đã cất được từ cây bồ bồ 1% tinh dầu và đã phân tích thấy có 51.monoterpen và 2d.sesquiterpen trong đó có 38,5% cineol, ngoài ra còn thấy limonen.
  • Năm 1974, Lê Tùng Châu đã phân tích thấy trong tinh dầu bồ bồ Việt Nam có 22,6%
  • 1. limonen, 11,6% humulen, 33,5% 1. fenechon và 5,9% cineol. Ngoài ra còn thấy saponin, tritecpenic, flavonoit, axit nhân thơm và cumarin. Toàn cây có 0,8% tinh dầu, lá 2,15%, hoa 0,82%, tỷ trọng 0,912 (20°) αD =1,4768, D-44,92°.
  • Nguyễn Viết Tựu và cộng sự (PV dược liệu TP Hồ Chí Minh) phân tích thấy trong nhân trần tía có 0,25% tinh dầu, màu vàng sẫm, tỷ trọng 0,890, chỉ số khúc xạ 1,496, sắc ký khi thấy 19 pic trong đó có 5 pic lớn cineol khoảng 18%. Ngoài ra còn có flavonoit, hợp chất polyphenol và cumarin.
  • Cây nhân trần Trung Quốc-Artemisia capillaris chứa 0,23% tinh dầu, với thành phần chủ yếu là pinen, capilen C6H5 – C7H9 và một loại xeton.

Tác dụng dược lý

  • Nhân trần có tác dụng tăng tiết mật và tăng thải độc của gan. Nhưng so sánh tác dụng lên gan, mật của bồ bồ và nhân trần thì tác dụng của bồ bồ mạnh hơn.
  • Nhân trần cũng có tác dụng chống viêm trên cả 3 mô hình. Nhân trần và bồ bồ có tác dụng tương đương ở mô hình phù caolin và teo tuyến ức nhưng đối với mô hình u hạt thì nhân trần chưa bằng 1/2 của bồ bồ. Trên phù caolin với liều 15g/kg thể trọng thì ức chế phù của nhân trần lại giảm.
  • Tác dụng kháng khuẩn của nhân trần kém hơn bồ bồ nhất là với trực khuẩn lỵ. Nhưng nhân trần ức chế mạnh hơn với Staphylococcus và Streptococcus.
  • Nhân trần tác dụng không rõ rệt lên tiết dịch vị: Không giảm loét dạ dày, không giảm tiết dịch vị, có làm giảm axit tự do và axit toàn phần tuy nhiên hai tác dụng này lại giảm khi dùng liều cao.
  • Như bồ bồ, nhân trần không độc.

Nhân trần tía

Tác dụng

  • Dịch chiết cồn 900 có độc tính cao hơn nước sắc nhân trần tía. Với liều lượng 300mg/ kg thể trọng dịch chiết nước không thấy chuột lang chết.
  • Làm tăng lượng tiết mật trên chuột lang. Lượng mật tăng gần 25% so với lô đối chứng.
  • Nhưng đối với nhân trần Trung Quốc, Artemisia capillaris chủ yếu các tác giả nghiên cứu tác dụng chữa sốt và một số tác dụng khác.
  • Năm 1929, 3 nhà nghiên cứu Nhật Bản đã tiêm thuốc chiết bằng nước từ cây nhân trẩn Trung Quốc cho chó đánh mê, đã phát hiện rằng nhân trần có tác dụng tăng sự bài tiết và ức chế
  • Năm 1952, một nhà nghiên cứu Nhật Bản khác (Sơn Bản Dục Hoàng) đã tiến hành nghiên cứu tác dụng của tinh dầu nhân trần Trung Quốc trên một số động vật đã phát hiện rằng đối với động vật không xương sống thì tác dụng gây mê (ví dụ đối với giun đất, giun lợn, giun người): Thí nghiệm trên giun đất, ếch, giun lợn thì thấy với liều nhỏ có tác dụng kích thích cơ vận, làm cho tăng hiện tượng co rút, nhưng với liều cao lại có tác dụng ức chế và gây mềm dần, đối với ruột ếch và mẩu ruột thỏ cô lập lúc đầu thấy có tác dụng ức chết nhu động, nếu tiêm vào tĩnh mạch thỏ thì thấy huyết áp hạ thấp: Với liều nhỏ làm biên độ hô hấp tăng cao, nhưng với liều cao thì lại làm đình chỉ hô hấp mà chết.
  • Năm 1956, Khổng Thế Tích (Trung Hoa y học tạp chí, 10) đã báo cáo thí nghiệm tác dụng của dung dịch 20% nhân trần trong cồn 70° cho thỏ uống với liều 10mg trên 1kg thể trọng thì thấy nhân trần có tác dụng hạ sốt rõ rệt đối với thỏ đã gây sốt do tiêm vi trùng thương hàn, tuy nhiên cùng với liều lượng đó mà dưới dạng thuốc sắc thì tác dụng rất yếu.
  • Năm 1947, Từ Tấn (Nông báo, 1) đã nghiên cứu tác dụng diệt trùng của 400 vị thuốc Trung Quốc đã phát hiện nhân trần có tác dụng ức chế khá mạnh đối với vi trùng tụ cầu khuẩn (Staphylococus).
  • Năm 1956, (Dược học tạp chí, 76 (4): 397- 400) một số nhà nghiên cứu Nhật Bản đã chứng minh tác dụng ức chế của nhân trần đối với một số khuẩn gây bệnh ngoài da, tác dụng này không giảm dù vị thuốc được xử lý trên 100oC.

Công dụng và liều dùng

  • Mặc dầu cây rất khác nhau, nhưng nguồn gốc sử dụng nhân trần dựa vào kinh nghiệm ghi trong sách cổ. Theo tài liệu cổ nhân trần vị đắng, tính bình, hơi hàn vào kinh bàng quang. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, dùng chữa thân thể nóng, da vàng người vàng, tiểu tiện không tốt.
  • Trong nhân dân, nhân trần thường dùng cho phụ nữ sau khi sanh nở để giúp cho ăn ngon cơm, chóng hồi phục cơ thể. Còn dùng làm thuốc chữa sốt, ra mồ hôi, thông tiểu tiện, chữa bệnh vàng da, bệnh gan.
  • Trong thú y, người ta dùng bồ bồ chữa bệnh trâu bò ỉa cứt trắng.
  • Ngày dùng 4 đến 6g, có khi tới 20g dưới hình thức thuốc sắc, sirô, thuốc pha hay thuốc viên.
  • Nên nghiên cứu tác dụng so sánh của 3 vị thuốc nhất là 2 vị thuốc của nước ta.

Đơn thuốc có nhân trần

Chữa sốt vàng da, ra mồ hôi ở đầu mà người không có mồ hôi, miệng khô, tiểu tiện khó khăn, bụng đầy: Nhân trần cao thang: Nhân trần Trung Quốc 24g, chi tử (dành dành) 12g, đại hoàng 4g, nước 800ml, sắc còn 250ml chia 3 lần uống trong ngày. Trong đơn này ở Việt Nam ta thường thay nhân trần Trung Quốc bằng nhân trần Việt Nam hay bồ bồ.


Source link

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *